(Luật Tiền Phong) – Giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng không phải khi nào cũng dễ dàng, và thường gặp khó khăn đến từ nhiều phía. Cũng vì giá trị hợp đồng xây dựng thường lớn, liên quan đến tài sản, chỗ ở.. nên việc giải quyết tranh chấp thường phức tạp.
Dưới đây là bài viết của Luật Tiền Phong về một trường hợp tranh chấp hợp đồng xây dựng mà chúng tôi tham mưu giải quyết cho khách hàng.
Tình huống:
Ông A đại diện cho công ty B ký hợp đồng xây dựng nhà ở dân dụng cho bà C tại Hoàng Mai, Hà Nội. Diện tích nhà xây 18m2. Số tầng xây: 1. Giá trị xây dựng: 300 triệu đồng, bà C đã thanh toán đủ, ông A đã xây dựng cơ bản xong, có nghiệm thu công trình qua tin nhắn với chủ nhà.
Ngoài ra, bà C ký hợp đồng với công ty B nhờ công ty này lo giấy phép xây dựng cho căn nhà của bà, vì bà chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất.
Hiện tại căn nhà được xây dựng hoàn thành nhưng UBND phường yêu cầu tháo dỡ vì không có giấy phép xây dựng, không tách thửa đối với nhà có diện tích quá nhỏ. Bà C bắt đền công ty B đòi tiền làm giấy phép xây dựng, bắt đến ông A và yêu cầu ông A trả lại tiền vì đã làm gia đình bà quá thiệt hại.
Ông A trình bày với luật sư: mình đại diện công ty B ký hợp đồng nhưng không phải là người đại diện theo pháp luật. Tiền bà C chuyển khoản vào tài khoản cá nhân, ông A nộp cho công ty B 140tr, ông giữ lại 160tr, đúng số tiền ông xây dựng nhà, có hoá đơn, chứng từ, bảng kê vật liệu, giá trị thi công. Ông C cho biết: “Mình rất sợ bà C đi đòi tiền mình không có tiền để trả nên nhờ luật sư tư vấn hướng giải quyết”.
Ý kiến của luật sư:

1. Về khoản tiền đã nhận theo tài khoản cá nhân:
Ông A nhận tiền từ bà C để thi công nhà, giữa hai bên có hợp đồng xây dựng. Việc bà C chuyển tiền để thi công căn nhà và ông A làm thật, có thể chứng minh và có tin nhắn về việc tiếp nhận nghiệm thu cơ bản. Như vậy, vấn đề bà C đưa ra được coi là tranh chấp hợp đồng xây dựng.
Nếu các bên không thương lượng giải quyết được, công ty B không hợp tác để thảo luận phương án giải quyết hợp đồng thi công và cả hợp đồng xin giấy phép xây dựng (hợp đồng dịch vụ), thì bà C có quyền khởi kiện vụ án.
Lúc này, ông A sẽ tham gia với tứ cách Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Quyền và nghĩa vụ của ông A lúc này được giải quyết theo thực tế vai trò của ông trong mối quan hệ với công ty B và mối quan hệ với bà C.
2. Về hợp đồng xây dựng:
Khi ông A ký hợp đồng mà không phải người đại diện theo pháp luật của công ty B, thì cần có Giấy uỷ quyền của người đại diện theo pháp luật và việc uỷ quyền phải được thông báo đến bên thứ ba (bà C).
Về nội dung hợp đồng: cần xác định xem việc thỏa thuận xây dựng theo phương án thiết kế nào, có cần gì thêm việc xây dựng hay không. Nếu trong trường hợp hợp đồng quy định phải thi công theo giấy phép xây dựng mà Ông A không thực hiện tức là đã vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên nếu bà C biết và vẫn đồng ý cho thi công, nghiệm thu (qua tin nhắn) thì bà C cùng phải phối hợp giải quyết hậu quả, tức là phần nào ông A xây dựng đúng ý bà C thì bà phải chấp nhận nghiệm thu và thanh quyết toán giá trị theo thực tế.
3. Về thanh toán:
Nếu ông A đã nhận tiền theo đúng giá trị hợp đồng, và bà C không chứng minh được ông A vi phạm hợp đồng thì ông A không phải bồi thường.
Nếu người đại diện công ty B không ký Giấy uỷ quyền cho ông A và hợp đồng bị toà án tuyên vô hiệu thì giải quyết hậu quả như sau: căn cứ thực tế xây dựng, bà C phải thanh toán các phần thi công mà ông A đã làm và bà có biết, có đồng ý về mặt thực tế, cũng như có nghiệm thu thể hiện qua tin nhắn.
Đối với khoản tiền ông A đang cầm nhưng chưa thực hiện công việc, thì ông A có trách nhiệm hoàn trả lại cho bà C. Phần tiền ông A chuyển cho công ty, ông A có quyền đòi Công ty trả lại để thanh toán cho bà B.
4. Về hợp đồng xin giấy phép xây dựng:
Bà C có quyền buộc công ty B trả lại tiền và bồi thường thiệt hại khi bà không có giấy phép xây dựng. Bà phải chứng minh thiệt hại của mình. Trong trường hợp bà đã biết chắc công trình không có giấy phép xây dựng, Bên B cũng không hứa hẹn sẽ chịu trách nhiệm nếu cơ quan có thẩm quyền phá công trình xây dựng không phép, thì bà C không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với căn nhà nếu bị phá dỡ, vì việc bà vẫn cho xây dựng khi công trình chưa có giấy phép, cũng không có sự ràng buộc rõ ràng của công ty B thì bà phải chịu trách nhiệm.
5. Kết luận:
Việc nhiều bên hiện tại chưa đăng ký đất đai, cấp GCNQSDĐ nhưng có nhu cầu xây dựng nhà ở là khá nhiều. Song, nếu không làm vững vàng từng bước về pháp lý mà thuê người xây dựng nhà, xin giấy phép xây dựng như trường hợp bà C nêu trên thì khi xảy ra sự kiện cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước yêu cầu phá dỡ công trình vi phạm, thường là người thiệt hại nhất.
Hi vọng quá tình huống trên, các bạn sẽ có bài học cho mình, khi xây dựng nhà, thuê bên nhà thầu thi công hoặc xin giấy phép xác định, nên liên hệ với luật sư để được tư vấn cho cẩn thận, tránh tiền mất tật mang.
Trên đây là tư vấn pháp lý của Công ty Luật Tiền Phong, chúng tôi đăng tải để bạn đọc tham khảo. Chúng tôi không chịu trách nhiệm khi các bạn không tham vấn luật sư hoặc chuyên gia mà sử dụng thông tin trong bài viết để giải quyết vấn đề cho mình. Mỗi tình huống một khác, thời điểm khác, quy định khác, sự kiện pháp lý khác, không nên tự tiện lập luận mà không có chuyên gia tham mưu, đánh giá giúp.
Thân ái.
Các bài viết liên quan:
>>> Mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
———————————————
Công ty Luật TNHH Tiền Phong
Điện thoại tư vấn: 091.6162.618 và 097.8972.587
Email: Contact@luattienphong.vn
Địa chỉ: Tầng 3, tòa nhà Bình Vượng, số 200, đường Quang Trung, phường Hà Đông, thành phố Hà Nội.